Làm thế nào để biết tôm nuôi đã bị nhiễm bệnh đốm trắng do virus?
Bệnh đốm trắng do virus gây ra (White Spot Syndrome Virus – WSSV). Khi nhiễm bệnh, tôm có biểu hiện hoạt động kém, ăn nhiều đột ngột sau đó bỏ ăn, bơi lờ đờ ở mặt nước hay dạt vào bờ. Quan sát vỏ tôm có nhiều đốm trắng ở giáp đầu ngực, đốt bụng thứ 5, 6 và lan toàn thân. Đôi khi tôm cũng có dấu hiệu đỏ thân. Khi các đốm trắng xuất hiện, sau 3 – 10 ngày tôm chết hàng loạt với tỷ lệ chết cao và nhanh. Ở giai đoạn cấp tính, tôm nuôi chết rất nhanh (từ 80% trở lên) trong 1 – 5 ngày sau khi xuất hiện các dấu hiệu bệnh; Tôm bơi lội lờ đờ, ngừng ăn; Tôm hấp hối tập trung gần mặt nước quanh bờ ao, vỏ giáp đầu ngực lơi lỏng; Ngoại ký sinh bám đầy vỏ và mang; Ruột giữa màu trắng chạy dọc theo bụng ở ấu trùng và tôm giống nhiễm bệnh; Khi bóc tách vỏ giáp đầu ngực, soi dưới ánh sáng sẽ thấy các đốm trắng có đường kính 0,5 – 2 mm bên trong giáp đầu và đốt thứ 5 – 6. Đốm trắng có tâm trắng trong, bên ngoài trắng đục. Chậm đông máu.
Biện pháp phòng ngừa bệnh đốm trắng do virus gây ra?
Hiện, bệnh đốm trắng do virus gây ra trên tôm chưa có thuốc trị bệnh. Do đó, cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh là chủ yếu. Người nuôi cần chọn tôm giống khỏe mạnh không mang mầm bệnh qua xét nghiệm bằng phương pháp PCR, mô bệnh học hoặc gây sốc bằng Formol. Định kỳ xét nghiệm tôm nuôi để phát hiện chính xác, kịp thời, đặc biệt trong các giai đoạn tôm mẫn cảm với mầm bệnh. Cùng đó, người nuôi cần thực hiện tốt quản lý môi trường và cách ly các ao. Sử dụng các biện pháp thay nước có kiểm soát. Xử lý định kỳ bằng các chất diệt khuẩn để khử trùng môi trường nuôi và loại bỏ các cá thể bị bệnh ra khỏi đàn tôm. Bảo vệ khu vực nuôi, tránh sự xâm nhập của các loại vật chủ trung gian mang mầm bệnh. Chọn mùa vụ nuôi thích hợp, tránh thả tôm trong giai đoạn nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao. Cần áp dụng các công nghệ nuôi thân thiện với môi trường để phòng, chống bệnh hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng cao và đảm bảo chất lượng sản phẩm tôm nuôi. Đặc biệt, trong quá trình nuôi tôm, cần chú ý đến việc duy trì ổn định môi trường nuôi bằng các biện pháp cơ học như quạt nước, sục khí đáy và xi phông đáy ao; các biện pháp hóa dược như bón vôi để duy trì pH, tăng độ kiềm; các biện pháp sinh học như dùng chế phẩm sinh học để cải tạo môi trường ao nuôi…
Ban KHKT